Những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của dân tộc Pu Péo trên vùng Công viên địa chất
Mỗi dân tộc trên vùng Công viên địa chất đều có một nền Văn hoá dân gian riêng biệt, độc đáo mang đậm nét văn hoá vùng Đông Bắc. Với một kho tàng Văn hoá Vật thể và phi vật thể phong phú và quý báu, đặc biệt là được thể hiện qua các loại vật liệu, dụng cụ, nhà ở, trang phục, trang sức, âm nhạc, hát, múa, trò chơi, trò diễn, lễ hội dân gian...
Người Pu Péo trên vùng Công viên địa chất là hơn 600 người (niên giám thống kê 2019) trên 781 người Pu Péo trong toàn tỉnh, sinh sống chủ yếu tại các xã Phố Là (huyện Đồng Văn), Sủng Tráng và Phú Lũng (huyện Yên Minh.
Cho dù với số dân không đông, nhưng người Pu Péo lại sinh sống phân tán trên dải đất Việt – Trung. Đó chính là miền đất được mệnh danh “Cao nguyên đá” bởi địa hình nhiều đá gốc chưa phong hoá, còn để lại những “thạch thụ” làm hạn chế rất nhiều đối với việc canh tác. Người Pu Péo không ở trên núi cao như người Mông mà thường chọn những bồn địa giữa núi để lập làng. Làng bản của người Pu Péo đều thuộc vùng núi giữa, mang đậm tích chất của khí hậu á nhiệt đới. Với một điều kiện tự nhiên như vậy người Pu Péo có thể làm ruộng nước và vừa vận dụng được những thế mạnh của rừng trong canh tác.
Trong kinh tế người Pu Péo lấy nông nghiệp trồng trọt làm cơ sở chủ đạo, bên cạnh đó còn có sự bổ trợ của chăn nuôi, thủ công nghiệp gia đình và hái lượm và buôn bán nhỏ.
Cũng như các dân tộc khác người Pu Péo ở Hà Giang có một kho tàng văn hoá vật thể và phi vật thể đồ sộ chưa được các nhà nghiên cứu Văn hoá dân gian đề cập trong các công trình nghiên cứu và sưu tầm. Chính và vậy, tại Hội thảo này tôi xin đưa ra vài nét Văn hoá vật thể và phi vật thể; và một số giải pháp cần được bảo tồn và phát huy những giá trị Văn hoá vật thể và phi vật thể của người Pu Péo ở Công viên địa chất.
* Văn hoá vật thể:
Người Pu Péo thường cư trú ở những khu vực tương đối thấp, có nhiều thung lũng và đỉnh đồi bằng để có thể vừa làm ruộng nước vừa làm nương định canh. Các thôn xóm của họ thường có quy mô nhỏ, chỉ 10 - 12 hộ gia đình; cá biệt có những gia đình Pu Péo ở một mình, ghép với bản của người Hmông. Nhìn chung, do số dân ít, lại cư trú phân tán, hiện tượng xen cư của dân tộc này diễn ra khá phổ biến, theo kiểu một hoặc hai xóm Pu Péo ghép vào các bản của người Tày hoặc người Hmông. Do tính chất đa tộc, các mối quan hệ trong thôn bản cũng trở nên phức tạp hơn. Dưới chế độ cũ, người Pu Péo thường phải nhường quyền điều hành thôn bản cho các dân tộc khác bởi họ có số dân áp đảo và thiết chế xã hội chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, trên thực tế, chúng tôi không nhận thấy có sự mâu thuẫn đối kháng về dân tộc. Các sắc thái văn hoá Pu Péo vẫn được giữ cho đến nay, kể cả trong văn hoá vật chất cũng như tinh thần và nhất là trong ý thức tự giác tộc người.
Theo hồi ức của những người già, trước kia, người Pu Péo ở nhà sàn nhưng do rừng bị tàn phá nhiều nên việc tìm kiếm nguyên vật liệu trở nên khó khăn; vì vậy, họ đã phải chuyển sang ở nhà đất. Ngày nay, chúng ta không còn tìm thấy những ngôi nhà sàn, thậm chí ngay cả những yếu tố được coi là tàn dư. Tại Phố Là và Phố Lũng, chúng ta có thể nhận thấy, cấu trúc vật chất ngôi nhà đất của người Pu Péo hiện nay có hai dạng tương tự như nhà của người Việt. Dạng nhà thứ nhất phổ biến ở những gia đình làm từ trước những năm 1990, còn dạng nhà thứ hai chỉ xuất hiện sau này. Đó là kết quả của xu thế tiếp biến văn hoá trong những thời gian khác nhau.
Người Pu Péo ở kiểu dạng nhà làm theo kiểu của người Hoa đó là nhà trình tường, hai mái, không có chái và số gian không cố định, phổ biến hơn là ba gian. Các ngôi nhà đều được xây to, bề thế, nhưng chỉ được trổ một cửa ra vào không có cửa sổ. Trước đây người Pu Péo thường làm theo kiến trúc hai tầng giống người Hoa, mái nhà chủ yếu được lợp bằng cỏ tranh; Hiện nay được lợp bằng ngói máng (ngói âm dương) hoặc ngói Tây. Ngày nay các ngôi nhà làm theo kiểu người Việt chỉ có một tầng kiểu kiến trúc vẫn tương đối chuyên biệt. Nhà của Pu Péo thường được dựng ở chân đồi, tựa lưng vào rừng và nhìn ra ruộng. Hướng Nam và Đông Nam được xem là tốt nhất.
Không gian sinh hoạt của người Pu Péo rất đa dạng. Mỗi gia đình thường có khuân viên riêng, trong đó có các kiến trúc như: Nhà ở, chuồng gia súc và vườn nhà. Về nhà mới là lễ thức quan trọng nhất trong hệ thống tín ngưỡng liên quan đến ngôi nhà của người Pu Péo. Mọi nghi thức cúng tế nhà mới phải hoàn tất vào lúc gần sáng, đến khi trời sáng họ hàng, làng xóm sẽ sang mừng tân gia, chúc phúc cho gia chủ.
Trang phục của người Pu Péo đang có nguy cơ biến đổi cả về chất liệu cũng như kiểu dáng. Trước kia được may bằng vải bông tự dệt và nhuộm chàm; ngày nay hầu hết đều mặc vải công nghiệp. Cho đến nay, trang phục của họ vẫn chủ yếu được phân loại theo giới tinh và tình trạng hôn nhân ( đối với phụ nữ), không phân biệt theo vị thế xã hội hay nghề nghiệp. Nam giới Pu Péo từ lâu đã không còn biết đến bộ y phục truyền thống của mình. Hiện nay những người lớn tuổi chỉ mặc quần áo đen như nam giới như các dân tộc khác ở trong vùng. Tuy nhiên, các đặc trưng văn hoá của dân tộc Pu Péo cơ bản vẫn được bảo lưu ở trang phục nữ. Trang sức của người Pu Péo chủ yếu là bằng bạc, thường được đi chung với những bộ trang phục mang những nét hoa văn đặc sắc riêng của dân tộc mình.
Trống đồng xưa kia được người Pu Péo sử dụng trong các hoạt động văn hoá như: Lễ hội, tang ma, cưới xin... Ngày nay người ta chỉ còn dùng nó trong các đám ma khô. Trống đồng của Pu Péo có 2 loại (trống đực và trống cái), Trống đồng còn là nhạc nền cho những điệu dân ca, dân vũ thế nhưng ngày nay Trống đồng đã mất và không còn nghệ nhân nào biết sử dụng Trống đồng theo hiệu lệnh nữa.
Chính vì vậy, tất cả chúng ta và các nhà nghiên cứu văn hoá, các tổ chức,cá nhân hãy chung tay góp sức khôi phục, bảo tồn và phát huy những giá trị Văn hoá đã và đang bị mất hoặc bị mai một trong cộng đồng người Pu Péo như: Tập quán ở nhà sàn, Trống đồng, trang phục, nghề đan lát mây tre, nghề dệt thủ công, nghề làm đồ gỗ, khoảng 30 trục năm trở lại đây họ còn biết làm nghề gạch ngói.
*Văn hoá phi vật thể:
Người Pu Péo tin vào sự tồn tại của ba thế giới. Ngoài thế giới thực, còn có sự tồn tại của một thế giới khác ở trên trời, mà con người không kiểm soát được - thế giới của các thần linh. Trong thế giới đó, ngoài các vị thần còn có những người trời, có đặc điểm là mặt đỏ và thường đeo dao gỗ ở cổ. Thế giới thứ ba ở dưới mặt đất với những con người chỉ bé bằng ngón tay và thường đeo dao ở khoeo chân. Thời gian của thế giới thực và hai thế giới kia luôn ngược nhau, trước kia ba thế giới được thông qua bằng chiếc thang. Truyền thuyết của người Pu Péo kể lại rằng quả bầu chính là vật đã cứu sống tổ tiền của dân tộc này. chính vì vậy: Con cháu dân tộc này khi cúng tổ tiên bao giờ cũng bày thức ăn lên nong chứ không bày lên mâm; và khi hành lễ, bao giờ thầy cúng cũng phải cầm một quả bầu. Người Pu Péo sử dụng lịch nhà Chu, mỗi giáp có 12 năm, mỗi năm chia thành 12 tháng, mỗi tháng có 29 ngày hoặc 30 ngày, mỗi ngày có 12 giờ. Cứ 3 năm, sẽ có một năm nhuận, hoàn toàn khớp với cách tính năm, tháng và ngày của âm lịch ngày nay. Vì vậy họ cũng ăn tết Nguyên đán như nhiều dân tộc khác.
Mặc dù có số dân không đông, nhưng người Pu Péo ở Hà Giang vẫn còn lưu giữ trong ký ức cộng đồng một kho tang văn nghệ dân gian phong phú. Những bài cúng của họ thực chất là những áng cổ văn, kể về nguồn gốc loài người, về nạn đại hồng thuỷ và lịch sử du cư của họ từ đời này sang đời khác. Trong đám cưới, trai gái thường hát đối đáp mà nội dung của các bài hát thường nói nhiều về tình yêu lứa đôi và biểu thị khát vọng hạnh phúc. Ngoài ra, họ còn có nhiều thành ngữ, tục ngữ, được sử dụng khá nhuần nhuyễn trong giao tiếp hàng ngày. Đó là một lối truyền đạt các tri thức bản địa hữu hiệu, một biện pháp giáo dục cộng đồng hiệu quả. Đáng tiếc cho đến nay việc nghiên cứu giá trị văn học dân gian của người Pu Péo chưa thực sự được chú ý.
Do vậy, từ những nền văn hoá phi vật thể của người Pu Péo đã và đang bị mai một đòi hỏi các nhà nghiên cứu bắt tay vào nghiên cưu, sưu tầm và xây dựng thành các đề án khoa học để được bảo tồn và phát huy những phong tục tập quán, lễ hội, dân ca, cưới xin theo phong tục riêng của người Pu Péo... đặc biệt là Lễ cúng thần rừng (Lễ cúng thần rừng Là lễ cúng cầu Thần Rừng, Thần Đá, Thần Suối bảo vệ ruộng nương và phù hộ sự bình yên cho người Pu Péo có cuộc sống ấm no, hạnh phúc).
Xuất phát từ những phong tục tập quán, văn hoá truyền thống của dân tộc thiểu số là một nét đẹp trong đời sống văn hoá của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Chính những nét văn hoá truyền thống ấy nó đã thôi thúc mỗi con người Việt Nam chúng ta tìm về cội nguồn một cách tận tâm, tận ý. Đây cũng chính là xuất phát từ nhu cầu chính đáng của toàn xã hội phải làm sao gìn giữ nó. Mỗi dòng họ, mỗi tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam đều có một nét văn hoá độc đáo riêng chúng ta khơi dậy và bảo tồn, duy trì được những nét văn hoá ấy thì bản sắc văn hoá Việt Nam càng được sâu sắc và bền vững. Vì vậy việc nghiên cứu những giá trị văn hoá truyền thống là một vấn đề quan trọng không những của dân tộc Pu Péo ở Hà Giang, mà cả các dân tộc khác trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Chính vì vậy, những giá trị văn hoá dân gian của các dân tộc thiểu số miền núi là một phần không thể tách rời khỏi văn hoá các dân tộc nơi đây. Việc khai thác các giá trị văn hoá của các dân tộc thiểu số miền núi trong việc phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc đòi hỏi phải tiếp cận vấn đề một cách tổng thể và phải nghiên cứu bài bản, khoa học. Đồng thời phải phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan cũng như sự tham gia đông đảo của cộng đồng. Bằng cách đưa các giá trị văn hoá vào phục vụ du lịch cũng là hình thức bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số, góp phần phát triển mọi mặt đời sống kinh tế xã hội, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo đối với bà con các dân tộc vùng sâu, vùng xa.
Hiện nay đất nước ta đang trên đà phát triển, sự tác động của một lối sống công nghiệp đang đòi hỏi toàn xã hội phải gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc. Mà chuẩn mực là “Thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam” nếu giữ được những nét đẹp ấy thì chúng ta xây dựng đất nước dù trong hoàn cảnh khó khăn nào chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua và không tự đánh mất mình.
Ngọc Phượng